Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là gì?

Bộ luật Dân sự được coi là luật nền tảng của hệ thống văn bản và luật định. Nội dung của Bộ luật Dân sự điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống và các quan hệ xã hội. Bộ luật Dân sự là văn bản quy phạm Bộ luật Dân sự do Quốc hội ban hành theo trình tự, thủ tục do luật định. Luật dân sự là luật điều chỉnh các quan hệ về nhân thân và tài sản của các thể nhân và pháp nhân trong các quan hệ được tạo lập trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và chịu trách nhiệm cá nhân. Mời bạn đọc tham khảo bài viết “Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là gì?”. Sau đây, Luật sư Bắc Ninh sẽ giới thiệu đến bạn đọc các đối tượng điều chỉnh của Bộ luật dân sự 2015.

Luật dân sự là gì?

Luật dân sự là một ngành luật độc lập trong quan hệ thống pháp luật nhà nước Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật dân sự do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân phi tài sản hoặc có liên quan đến tài sản của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác, dựa trên nguyên tắc bình đẳng về mặt pháp lí, quyền tự định đoạt, quyền khởi kiện dân sự và trách nhiệm tài sản của những người tham gia quan hệ đó.

Luật dân sự là ngành luật trong hệ thống pháp luật, là tổng hợp những quy phạm điều chỉnh các quan hệ tài sản và một số quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự trên cơ sở bình đẳng, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia các quan hệ dân sự. Luật dân sự gồm các nguyên tắc cơ bản và có chế định khác nhau như: chế định tài sản và quyền sở hữu; chế định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự; chế định nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; chế định thực hiện công việc không có ủy quyền; chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; chế định thừa kế; chế định chuyển quyền sử dụng đất; chế định quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Mỗi chế định của luật dân sự đều có những nguyên tắc riêng trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản và có những quy phạm được tập hợp theo những tiêu chí riêng phù hợp với chế định đó.

Trong khoa học pháp lý, khái niệm luật dân sự được hiểu dưới các góc độ: một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, một ngành khoa học pháp lý, một môn học thuộc chương trinh đào tạo đại học, cao học…

  • Dựa vào đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, có thể định nghĩa luật dân sự như sau: Luật dân sự VN là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tài sản và nhân thân của cá nhân và pháp nhân trên nguyên tắc bình đẳng về mặt pháp lý, tôn trọng quyền tự định đoạt và khả năng tự chịu trách nhiệm về tài sản của các chủ thể.
  • Luật dân sự là luật gốc của luật tư.
  • Luật dân sự được gọi là luật chung.
  • Trong quan niệm thống trị của các nước, luật dân sự thiết lập các nguyên tắc cơ bản chi phối toàn bộ hệ thống luật tư. Các nguyên tắc này phải được tôn trọng trong quá trình xây dựng các luật chuyên ngành, nhằm bảo đảm tính thống nhất về quan điểm lập pháp của một hệ thống luật. Điều này được khẳng định trong luật của nhiều nước Châu Âu và đang dần được khẳng định trong quá trình hoàn thiện pháp luật dân sự Việt nam

Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là những quan điểm, tư tưởng mẫu mực trong toàn bộ quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật dân sự, được quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự gồm 5 nguyên tắc sau:

  1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.
  2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của thuật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
  3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.
  4. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
  5. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.
Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là gì?
Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự 2015 là gì?

Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là gì?

Căn cứ t quy định Điều 1 Luật Dân sự năm 2015: 

“Bộ luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).”

Đối tượng điều chỉnh của Bộ Luật dân sự là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm.

Quan hệ tài sản

Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản, Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn với một tài sản nhất định được thể hiện dưới dạng này hay dạng khác.

Tài sản (được khái quát chung ở Điều 105 BLDS năm 2015) bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Quan hệ tài sản tài sản không chỉ bó hẹp ở những vật vô tri mà còn hàm chứa nội dung xã hội là những quan hệ xã hội liên quan đến một tài sản.

Quan hệ tài sản không chỉ bao gồm vật thuộc về ai, do ai chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà còn bao gồm cả việc dịch chuyển những tài sản đó từ chủ thể này sang chủ thể khác, quyền yêu cầu của một hay nhiều chủ thể và nghĩa vụ tương ứng với các quyền yêu cầu đó của một hay nhiều chủ thể khác trong quan hệ nghĩa vụ cũng được coi là quan hệ tài sản. Quan hệ tài sản rất đa dạng và phức tạp bởi các yếu tố cấu thành nên các quan hệ đó bao gồm: chủ thể tham gia, khách thể được tác động và nội dung của các quan hệ đó. Quan hệ tài sản là đối tượng điều chỉnh của luật dân sự có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, quan hệ tài sản do BLDS quy định là quan hệ không bắt buộc. Quan hệ sở hữu là những quan hệ kinh tế cụ thể trong quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng sản phẩm và cung ứng dịch vụ trong xã hội. Quan hệ sở hữu luôn gắn liền và tương ứng với quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở hạ tầng của xã hội. Quan hệ sản xuất không phụ thuộc vào ý muốn của con người, mà nảy sinh và phát triển theo các quy luật khách quan. Tuy nhiên, các quy luật này được nhận thức và phản ánh thông qua các quy phạm pháp luật chủ quan. Ý chí của giai cấp thống trị phản ánh tồn tại xã hội thông qua các quy phạm pháp luật. Tất cả các chủ thể tham gia vào một quan hệ kinh tế cụ thể đều có mục tiêu và động cơ cụ thể. Vì vậy, các quan hệ tài sản mà chủ thể tham gia phải mang ý chí của chủ thể và tương thích với ý chí của nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật dân sự. Các quốc gia sử dụng các quy phạm của pháp luật dân sự để tác động đến các quan hệ kinh tế và sắp xếp cho các quan hệ này phát sinh và thay đổi theo ý muốn của Nhà nước. Vì vậy, sự tác động của nhà nước thông qua luật dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng sự phát triển của quan hệ tài sản. Nếu định hướng phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển thì nó thúc đẩy quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại thì nó cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Thứ hai, Các quy luật kinh tế thị trường trong nền sản xuất xã hội điều chỉnh các quan hệ sở hữu, trong đó có quan hệ giữa tiền và hàng hóa. Việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường diễn ra chủ yếu dưới hình thức tiền tệ, tức là hàng hóa. Với sự chuyên môn hóa sản xuất, sự phát triển của khoa học và công nghệ, quan niệm xã hội về vật trao đổi, khái niệm hàng hóa ngày càng được mở rộng. Tài sản là chủ thể và đối tượng của quan hệ tài chính phải có giá trị bằng tiền và có thể chuyển giao thông qua giao dịch dân sự. Do đó, các quan hệ tài sản này không vượt ra ngoài sự kiểm soát của các quyền tài sản, hay tiền bạc.

Thứ ba, Tài sản được pháp luật dân sự quy định có tính chất đền bù. Trao đổi ngang giá trong trao đổi là biểu hiện của mối quan hệ giữa hàng hóa và tiền tệ, là đặc trưng của quan hệ dân sự theo nghĩa rộng hơn. Tuy nhiên, không phải tất cả các chuyển nhượng tài sản hoặc dịch vụ đều có sự cân nhắc như nhau như tặng phẩm, tặng cho, thừa kế, sử dụng tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật. Nó không chỉ được xác định bởi các quan hệ pháp luật, mà còn bởi nhiều quan hệ xã hội khác (truyền thống, tập quán, v.v.).

Quan hệ nhân thân

Bộ luật Dân sự còn điều chỉnh các quan hệ nhân thân (Mục 1 BLDS 2015). Mối quan hệ cá nhân là mối quan hệ giữa mọi người về giá trị cá nhân của một cá nhân hoặc tổ chức. Xác định giá trị của cá nhân là quyền nhân thân phải được pháp luật thừa nhận là quyền tuyệt đối của cá nhân, tổ chức. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với một chủ thể và về nguyên tắc không được chuyển giao cho chủ thể khác trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Đây là quyền dân sự tuyệt đối và mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân của người khác. Quyền nhân thân được điều chỉnh bởi nhiều ngành luật. Luật hành chính quy định trình tự, thủ tục xác định các quyền của cá nhân như: phong các danh hiệu cao quý của Nhà nước; tặng thưởng các loại huân, huy chương; công nhận các chức danh… Luật hình sự bảo vệ các giá trị nhân thân bằng cách quy định những hành vi nào khi xâm phạm đến những giá trị nhân thân nào được coi là tội phạm (như các tội: vu khống, làm nhục người khác, làm hàng giả…).

Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân bằng cách quy định những giá trị nhân thân nào được coi là quyền nhân thân, trình tự thực hiện, giới hạn của các quyền nhân thân đó, đồng thời quy định các biện pháp thực hiện, bảo vệ các quyền nhân thân (Điều 11 – Điều 14 BLDS năm 2015).

Các quan hệ nhân thân xuất phát từ quyền nhân thân do luật dân sự điều chỉnh có thể chia làm hai nhóm căn cứ vào khoản 1 Điều 17 BLDS năm 2015:

  • Quan hệ nhân thân gắn với tài sản;
  • Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản.

Những quan hệ nhân thân do luật dân sự điều chỉnh có những đặc điểm sau:

  • Quyền nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể dịch chuyển được cho các chủ thể khác. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định có thể được dịch chuyển. Những trường hợp cá biệt này phải do pháp luật quy định quyền công bố tác phẩm của tác giả các tác phẩm, các đối tượng sở hữu công nghiệp…).
  • Quyền nhân thân không xác định được bằng tiền – giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản như danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, danh dự, uy tín của tổ chức; quyền đối với họ, tên; thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc, thay đổi dân tộc; quyền đối với hình ảnh; với bí mật đời tư; quyền kết hôn, ly hôn… (từ Điều 26 đến Điều 39 BLDS năm 2015). Một số quyền nhân thân mới được ghi nhận và bảo hộ trong BLDS năm 2015 như: quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình; chuyển đổi giới tính; quyền nhân thân trong quan hệ hôn nhân và gia đình…

Bộ luật Dân sự ghi nhận các giá trị nhân thân được coi là quyền nhân thân và đưa ra các biện pháp bảo vệ các giá trị nhân thân đó. Mỗi chủ thể đều có những giá trị cá nhân khác nhau nhưng đều được bảo vệ như nhau khi những giá trị đó bị vi phạm hoặc yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tự đính chính trên các phương tiện thông tin đại chúng. Yêu cầu người phạm tội hoặc yêu cầu tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường số tiền lớn để bù đắp tổn thất về tinh thần.

Quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản là những giá trị nhân thân mà khi xác lập sẽ cấu thành quyền tài sản. Quyền tinh thần là tiền đề thiết lập quyền tài sản với sự có mặt của một số sự kiện pháp lý như: B. Tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật. Quyền tác giả sáng chế, giải pháp sử dụng, kiểu dáng công nghiệp… được hưởng tiền bản quyền, tiền thù lao, tiền thù lao cho việc áp dụng các biện pháp bảo hộ công nghiệp nêu trên. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân thân nhưng người có hình ảnh được bồi thường thiệt hại nếu hình ảnh đó bị người khác sử dụng nhằm mục đích thương mại. Là sự kiện xác lập quyền nhân thân gắn liền với tài sản.

Mời bạn xem thêm:

Thông tin liên hệ

Trên đây là nội dung bài viết liên quan đến vấn đề “Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là gì?” . Hy vọng bài viết có ích cho độc giả, Luật sư Bắc Ninh với đội ngũ luật sư, luật gia và chuyên viên pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ cung cấp dịch vụ pháp lý như Đặt cọc mua bán nhà đất . Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe mọi thắc mắc của quý khách hàng. Thông tin chi tiết quý khách hàng vui lòng liên hệ qua số hotline: 0833.102.102.

Câu hỏi thường gặp

Mục đích của giao dịch dân sự trong Bộ luật Dân sự 2015?

Theo quy định tại Điều 118 Bộ luật Dân sự 2015 thì nội dung này được quy định như sau:
Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó.

Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân?

Theo quy định hiện hành tại Điều 86 Bộ luật dân sự 2015 thì Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được quy định như sau:
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký.
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân

Rô bốt được coi là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự không?

Căn cứ Điều 16 Bộ luật dân sự 2015 quy định về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân như sau:
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.
3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.
Và căn cứ Điều 17 Bộ luật trên quy định về nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân như sau:
1. Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.
2. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản.
3. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
Rô bốt được con người sản xuất ra, chế tạo ra và phục vụ cho các nhu cầu cần thiết của con người. Rô bốt lúc này chỉ được xem như là một loại tài sản bình thường thuộc sở hữu của người nào mà đã mua nó về sau khi nó được sản xuất. Hơn nữa, Rô bốt cũng không có quyền nhân thân, quyền sở hữu đối với bất kể một tài sản nào mà chính bản thân nó còn là một vật thuộc sở hữu của người khác và đặc biệt nó cũng không có khả năng tham gia vào các quan hệ dân sự.

5/5 - (1 bình chọn)

Liên hệ để được hỗ trợ tốt nhất

Related Articles

Trả lời